Truyền hình KHCN

Tăng cường việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH&CN vào các lĩnh vực của đời sống xã hội; phát triển các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghệ sinh học, tạo ra các sản phẩm đạt năng suất, chất lượng cung ứng ra thị trường, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hòa Bình nói chung và Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nói riêng.

mia tim du an phan vs 1

Mô hình thử nghiệm sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh cho cây mía tím

Với tư duy đổi mới sáng tạo, Công ty TNHH Công nghệ sinh học TVT đã nghiên cứu thành công và đang chuyển giao quy trình nuôi trồng các loại nấm ăn và nấm dược liệu (nấm mối đen, nấm hầu thủ, nấm milky).

4 UDCNSH de trong nam vi sinh324


Được thành lập hồi tháng 10/2015, Công ty TNHH Công nghệ sinh học TVT (quận 2, TP.HCM) mang kỳ vọng phát triển mảng nuôi cấy và sản xuất đông trùng hạ thảo bằng công nghệ sinh học nhằm cung cấp nguồn sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đủ tiêu chuẩn lưu hành của Bộ Y tế.

Khởi đầu, TVT nhận chuyển giao công nghệ nuôi cấy đông trùng hạ thảo (chủng giống của Nhật Bản) từ Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường (thuộc ĐH Nông Lâm TP.HCM). Công nghệ này xuất phát từ là đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (mã số B2013-12-05) về nghiên cứu đông trùng hạ thảo đã được nghiệm thu tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, công ty cũng nhận sự tư vấn và hỗ trợ từ nhiều chuyên gia ở ĐH Cần Thơ, ĐH Thủ Dầu Một từ việc nuôi trồng, thu hoạch đến sản xuất các mẻ đông trùng hạ thảo. Ngoài ra, công ty còn hợp tác với ĐH Chiang Rai (Thái Lan) để cùng trao đổi công nghệ, hỗ trợ sản xuất kinh doanh một số sản phẩm tiêu biểu như đông trùng hạ thảo, nấm linh chi, tỏi đen cùng các loại nấm ăn.

Không chỉ tập trung vào sản phẩm đông trùng hạ thảo, với tư duy đổi mới sáng tạo liên tục không ngừng, đội ngũ chuyên gia công nghệ sinh học ở TVT đã nghiên cứu nuôi trồng các loại nấm ăn và nấm dược liệu khác.

Cụ thể, dự án khởi nghiệp “Nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu (nấm mối đen, nấm hầu thủ, nấm milky)” của TVT đã được chọn là một trong 14 dự án được hỗ trợ của Chương trình Hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 (SpeedUp 2017) của Sở KHCN TP.HCM với kinh phí lên đến 1 tỷ đồng.

Dự án này hướng đến việc tạo lập quy trình và môi trường thích hợp nuôi trồng ba loại nấm (nấm mối đen, nấm hầu thủ, nấm milky), sản xuất nấm đạt chất lượng tốt có giá cả cạnh tranh hơn so với những sản phẩm ngoại nhập, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ những loại nấm có thành phần dinh dưỡng cao, được sử dụng như thực phẩm hàng ngày của người dân.

Hiện tại, TVT đã chuyển giao công nghệ nuôi trồng nấm mối đen, nấm milky, nấm hầu thủ trên 5 đơn vị có nhu cầu sản xuất. Bên cạnh đó, công ty còn sẵn sàng mở rộng hợp tác với người nông dân hoặc các cơ sở có nhu cầu nuôi trồng nấm, đồng thời tiến hành thu mua lại sản phẩm sau nuôi trồng nhằm cung ứng thêm nguồn hàng cho mục đích xuất khẩu.

Trong thời gian sắp tới, TVT đang phấn đấu trở thành công ty công nghệ sinh học hàng đầu chuyên sản xuất và phân phối những sản phẩm có ích phục vụ sức khỏe cho người tiêu dùng.
UDCN021211C
Ứng dụng mạng lưới kết nối internet trong nông nghiệp công nghệ cao.
Ảnh minh hoạ: TTXVN

Ngày 28/11/2017, tại Hà Nội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức hội nghị lần thứ 2 - Cộng đồng Mở IoT Việt Nam (IOCV) “Ứng dụng IoT trong nông nghiệp công nghệ cao”.

Sự kiện có sự tham gia của gần 100 doanh nghiệp, tập đoàn từ nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, công nghệ thông tin, thương mại và dịch vụ.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đánh dấu sự phát triển bùng nổ của các công nghệ đột phá như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật, công nghệ sinh học, công nghệ nano….
Việc ứng dụng mạng lưới thiết bị kết nối Internet đang trở thành công nghệ có xu hướng ảnh hưởng ngày càng lớn đến đời sống con người, tác động rộng rãi trong nhiều lĩnh vực trong tương lai và là xu thế tất yếu của thế giới.
Phát biểu tại sự kiện, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh tầm quan trọng của Cách mạng 4.0 đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt việc ứng dụng mạng lưới thiết bị kết nối Internet (IoT) trong nông nghiệp công nghệ cao.
Việc cộng đồng IOCV hoạt động sôi nổi vừa qua với việc hợp tác thành công các giải pháp kĩ thuật do các công ty Việt Nam xây dựng vào mô hình mẫu nông nghiệp nghệ cao tại Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Delco đã mở ra một cách làm hoàn toàn mới, giúp kiểm soát chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành.
Công ty CP Wala trực thuộc VNPT Technology là 1 trong các đơn vị tham gia ứng dụng demo trang trại thông minh Delco do Cộng đồng mở IoT Việt Nam (IOCV) phát triển. Trang trại thông minh Delco ứng dụng Internet of Things (IoT) để tự động hóa hoàn toàn công việc quản lý, theo dõi, vận hành toàn bộ quá trình trồng trọt và chăn nuôi. Trước đây khi chưa ứng dụng IoT, công ty cần khoảng từ 20-30 nhân công để quản lý, chăm sóc trang trại. Sau khi ứng dụng IoT, công ty chỉ cần 5 nhân công.
Ông Bùi Ngọc Sơn, Trưởng phòng kinh doanh Công ty CP Wala, VNPT Technology cho hay, công ty đang ứng dụng IoT trong trồng dưa lưới, trồng thủy canh và trong trang trại gà. Công ty có những cảm biến (sensor) để giám sát và có những chương trình điều khiển tự động để đưa ra các lệnh tự động, giảm sức lao động của con người và tăng độ chính xác lên cao hơn, từ đó đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cộng đồng mở IoT Việt Nam (IOCV) được Viện Tin học Doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam khởi xướng từ tháng 3 năm 2017. Cộng đồng gồm 21 công ty công nghệ, nhằm xây dựng giải pháp phần mềm IoT ứng dụng cụ thể cho từng mô hình sản xuất nông nghiệp.
Một số giải pháp đang được IOCV cung cấp cho các hộ sản xuất là: trang trại thông minh, cổng kết nối tự động hóa, thiết bị quản lý nông nghiệp chính xác… Các giải pháp này đều có thể ứng dụng trên quy mô nhỏ với số vốn ban đầu chỉ từ 20-200 triệu đồng.
Ông Nguyễn Hồng Quang, Chủ tịch CLB Phần mềm tự do nguồn mở Việt Nam (VFOSSA) cho hay, có những nơi được thử nghiệm thì chỉ cần diện tích khoảng 600 m2. “Cái chúng tôi mong muốn là đưa được các giải pháp phù hợp với quy mô hộ nông dân, chỉ cần diện tích vài nghìn m2là có thể triển khai được, với giá cả mà người nông dân có thể chấp nhận và đầu tư được”.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang kinh tế số và hội nhập với cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc ứng dụng IoT là rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực thế mạnh của Việt nam là nông nghiệp. Việt Nam nên học hỏi các mô hình IoT tại Mỹ, Isreal để tiếp tục phát triển các sản phẩm công nghệ tiên tiến hơn.
Theo ông Đào Văn Chiến, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ, thời gian vừa qua cơ bản đã có những kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên, việc triển khai ứng dụng IoT trong nông nghiệp công nghệ cao thời gian tới cần có những phát triển hơn nữa, đặc biệt đưa vào sản xuất những thiết bị, máy móc thông minh hơn, tự động hóa cao hơn, giúp cho người dân có thể có sản phẩm mới chất lượng hơn.
Mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng thực tế hiện nay các giải pháp của IOCV chưa được ứng dụng rộng rãi mà mới đang được sử dụng trên diện tích khoảng 70.000 m2.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, để nâng cao diện tích ứng dụng, cần tăng cường liên kết giữa nhà cung cấp công nghệ với các hộ nông dân. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy mạnh hơn nữa ứng dụng IoT trong nông nghiệp…

Hiện nay, hằng năm các Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN được thành lập trực thuộc các Sở KH&CN thực hiện hàng nghìn hợp đồng dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp và người dân, mang lại tổng giá trị nhiều chục tỷ đồng.

Thống kê của Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ - Bộ KH&CN cho thấy, thời gian qua các trung tâm đã thực hiện nhiều hợp đồng dịch vụ tư vấn hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân.
Cụ thể hằng năm có tới khoảng 3000 hợp đồng/ nămhợp đồng tư vấn, chuyển giao công nghệ được thực hiện, tăng trưởng trung bình khoảng 15%/năm; giá trị hợp đồng tư vấn, chuyển giao công nghệ khoảng 80 tỷ đồng/năm, tăng trưởng trung bình 10-15%/năm.
Một số kết quả ứng dụng, chuyển giao công nghệ điển hình như: Công nghệ nuôi cấy mô tế bào; Công nghệ vi sinh trong sản xuất chế phẩm sinh học, sản xuất giống nấm ăn, nấm dược liệu; công nghệ trồng rau bằng hệ thống thuỷ canh, công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học phục vụ ngành thuỷ sản; công nghệ vật liệu mới sản xuất composite làm vỏ tàu, vật chứa; công nghệ xử lý nước sinh hoạt, nước uống; bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gene, phát triển tài sản trí tuệ…
Đây là kết quả bước đầu đáng ghi nhận, tuy nhiên, theo ý kiến các nhà quản lý và chuyên gia, chúng vẫn còn khá khiêm tốn nếu so với kỳ vọng cùng những nỗ lực đầu tư của Nhà nước trong những năm gần đây.
Chưa rõ đâu là mô hình phù hợp
Từ nhiều năm nay, các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN trực thuộc các Sở KH&CN gặp nhiều khó khăn do trụ sở tạm bợ, không có nhà xưởng, trạm, trại thực nghiệm, thiết bị lạc hậu, nhân lực phục vụ công tác nghiên cứu KH&CN còn thiếu và yếu...
980khu cnc thanh hoa 021231
Trung tâm nuôi cấy mô của Khu Nông nghiệp công nghệ cao Thanh Hóa. Ảnh: PN

Để giải quyết những khó khăn này, Đề án 317 (theo Quyết định 317/QĐ-TTg ngày 15/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ) ra đời, theo đó đến nay đã có 52/63 trung tâm thực hiện và được phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng trụ sở mới, nhà xưởng trại thực nghiệm, phòng thí nghiệm, tăng cường trang thiết bị kỹ thuật…với tổng kinh phí là 3.543 tỷ đồng, TS Tạ Việt Dũng – Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ cho biết.

Với quy mô hàng nghìn tỷ đồng Nhà nước đã bỏ ra, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN bước đầu đã được đầu tư bài bản. Nhưng trong cách tổ chức và hoạt động, trên thực tế các nhà quản lý vẫn chưa xác định rõ đâu là mô hình phù hợp và hiệu quả nhất.

Theo ông Trần Quốc Thành – Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Nghệ An, hiện mô hình hoạt động của các trung tâm vẫn chưa có sự thống nhất. Mặc dù theo Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BKHCN-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về KH&CN thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đã quy định, trung tâm là nơi đánh giá, tìm kiếm nhu cầu công nghệ của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội cũng như người dân, trên cơ sở đó kết nối các viện trường, ứng dụng thử nghiệm và chuyển giao.

“Tuy nhiên khi quy định tại văn bản hướng dẫn thì chưa được cụ thể nên mỗi trung tâm trên toàn quốc có một mô hình, cách làm không giống nhau, mỗi nơi có một kiểu triển khai” – ông Thành nói. Trong thời gian tới, ông cho rằng Bộ KH&CN cần xác định một số mô hình đã chứng minh được tính hiệu quả, rút ra những đặc điểm chung và cả những nét riêng phù hợp với đặc thù các địa phương, từ đó có hướng dẫn cụ thể hơn để các trung tâm có mô hình hoạt động một cách bài bản và có tính hệ thống.

Cần những sản phẩm ứng dụng cụ thể và hấp dẫn

Mặc dù chưa xác định rõ đâu là mô hình hiệu quả nhất nhưng kỳ vọng Nhà nước dành cho các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN là rất lớn, phản ánh qua yêu cầu tất cả các trung tâm này phải sớm thực hiện chuyển đổi sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Để làm được điều này, theo ông Thành, không có cách nào khác là các trung tâm phải có những sản phẩm KH&CN cụ thể và chứng minh được giá trị tiềm năng của chúng để hấp dẫn sự quan tâm của doanh nghiệp.

Muốn vậy, các trung tâm cần hướng đến các sản phẩm KH&CN đã phát triển chín muồi, sẵn sàng đưa vào thương mại hóa. Kinh nghiệm của Nghệ An là ngoài đề tài dự án trung tâm phối hợp với các viện, trường để triển khai, hằng năm, Sở KH&CN tỉnh Nghệ An chủ động tham gia tìm kiếm và giao cho Trung tâm nhiệm vụ, công nghệ có thể ứng dụng ngay mà không cần thông qua đề tài dự án nghiên cứu từ đầu để giảm thiểu kinh phí quản lý.

Ví dụ khi thấy Viện Chăn nuôi nghiên cứu thành công giống lợn mới, Nghệ An đã chỉ đạo Trung tâm nhập về địa phương, triển khai mô hình nuôi thay vì nghiên cứu, khảo sát. Kinh phí thực hiện được giao thông qua nhiệm vụ thường xuyên từ ngân sách sự nghiệp khoa học. “Cách này đã triển khai 2-3 năm nay cho thấy hiệu quả rõ rệt” – ông Thành nói.

Bên cạnh đó, một kinh nghiệm hữu ích khác là các trung tâm cần chủ động lựa chọn các sản phẩm KH&CN là thế mạnh của địa phương mình để tạo ra sự khác biệt với sản phẩm từ địa phương khác. Dẫn thực tế từ Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An thời gian qua, ông Thành cho biết trung tâm này đã có nhiều sản phẩm KH&CN nổi bật được ứng dụng tốt như: chế phẩm vi sinh vật phân hủy tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong đất trồng rau Biogreen, chế phẩm compost maker sản xuất phân vi sinh từ phế phụ phẩm nông nghiệp, các sản phẩm thuốc trừ sâu sinh học…

Đặc biệt các trung tâm này cũng là đơn vị chủ yếu triển khai chương trình bảo tồn khai thác phát triển quỹ gene, bằng cách chủ động phân tích chọn cây nào là cây quý, có giá trị kinh tế hấp dẫn, từ đó kêu gọi các đề tài dự án.

“Với vùng miền núi kêu gọi doanh nghiệp đầu tư sẽ khó cạnh tranh với đồng bằng, do đó phải thông qua quỹ gene này mới tìm thấy sự khác biệt. Minh chứng là Nghệ An đã kêu gọi được doanh nghiệp đầu tư cho cây hà thủ ô đỏ, cây sâm Phuxailaileng, đẳng sâm, cây gấc và đang chuẩn bị đầu tư cho cây trà hoa vàng” – ông Thành nói và cho biết Nghê An coi đây là nhiệm vụ thường xuyên để các trung tâm có thể tự chủ được.

Chính nhờ có những sản phẩm cụ thể và cách tiếp cận thiết thực như vậy mà Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An trở thành một trong những đơn vị đầu tiên của cả nước chuyển đổi thành công hoạt động sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Tập trung thay vì rải rác

Cho rằng để tồn tại và phát triển thì bản thân các đơn vị phải tích cực, chủ động, sáng tạo, tự chủ mạnh mẽ hơn nữa và có sản phẩm cho xã hội và thị trường, song bà Nguyễn Thị Tố Uyên – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Cần Thơ cũng kiến nghị Bộ KH&CN cần có những cơ chế hỗ trợ và giao các trung tâm thực hiện nhiệm vụ thuộc các Chương trình KH&CN cấp quốc gia, tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ từ các Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia, Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia…

“Lựa chọn và giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho trung tâm có nhu cầu và đủ điều kiện tiếp nhận kết quả nghiên cứu này vào hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ ở địa phương. Hỗ trợ các trung tâm hoàn thiện kết quả nghên cứu trước khi nhân rộng và chuyển giao công nghệ” – bà Uyên kiến nghị và cho rằng Bộ KH&CN cũng cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đặt hàng liên quan đến hoạt động giải mã công nghệ. Đây là một trong những giải pháp giúp các trung tâm nhanh chóng tiếp cận được với trình độ KH&CN của thế giới tạo nên những bước phát triển đột phá cho các ngành kinh tế - kỹ thuật.

Chung quan điểm này, ông Tạ Việt Dũng nhận định rằng trên thực tế từ Đề án 317 – các trung tâm đã được đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất hạ tầng tốt, có phòng thí nghiệm, trại thực nghiệm… đủ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ lớn, “vì thế cần được giao nhiệm vụ tập trung hơn thay vì các đề tài tản mát, nhỏ lẻ chia nhỏ ra nhiều sở, ngành như trước đây để khai thác hiệu quả kinh phí đã đầu tư”.

Nguồn http://khoahocphattrien.vn

 

UDCGTBKHCNCác Trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) tại các địa phương được thành lập với mục đích làm cầu nối, đẩy nhanh các tiến bộ KH&CN vào sản xuất. Nhưng trên thực tế, nhiều năm qua hoạt động của các đơn vị nêu trên chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội các địa phương.

Theo báo cáo của Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ KH&CN), hiện, cả nước có 63 Trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN với hơn 1.300 người. Trong hai năm 2015 và 2016, các trung tâm này chỉ thực hiện được 56 đề tài, 91 dự án với khoảng 3.300 hợp đồng dịch vụ, tư vấn và chuyển giao công nghệ, làm chủ được 197 công nghệ.
Tiến sĩ Hồ Ngọc Luật, nguyên Vụ trưởng KH&CN địa phương (Bộ KH&CN) cho rằng, nguyên nhân một số trung tâm hoạt động không hiệu quả là do chưa thực hiện được vai trò kết nối giữa những nhà nghiên cứu với khối sản xuất, kinh doanh và người dân. Phần lớn các trung tâm chưa được đầu tư đồng bộ, đầy đủ để thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Trụ sở nhiều trung tâm vẫn là nhà cấp bốn, thậm chí phải thuê chỗ làm việc, không có nhà xưởng, trạm, trại thực nghiệm, thiết bị lạc hậu. Nhân lực KH&CN còn thiếu và yếu, thiếu chuyên môn về công nghệ, chuyển giao công nghệ. Như tại Trung tâm Thông tin và Chuyển giao công nghệ mới của tỉnh Hà Giang, mặc dù đã hoạt động được gần 20 năm, nhưng vẫn chưa có trụ sở riêng, chưa đủ trang thiết bị đúng theo chức năng, mô hình hoạt động.
Một trong những khó khăn của các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ là nhu cầu về chuyển giao công nghệ còn ít, do người dân và doanh nghiệp chưa quan tâm việc mua công nghệ về sử dụng bởi chưa thấy được hiệu quả. Mặt khác, khi trung tâm được tiếp nhận công nghệ và giao cho người dân hoặc một tổ chức, nhưng các cá nhân và đơn vị đó lại không có nhiệm vụ phải nhân rộng mô hình, công nghệ, cho nên hiệu quả đầu tư, nghiên cứu còn hạn chế. Các trung tâm còn gặp nhiều khó khăn về nguồn đầu tư tài chính, luôn trong tình trạng không ổn định và thiếu các chính sách đãi ngộ, khuyến khích các cán bộ có trình độ về công tác. Như tại Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN của Vĩnh Phúc, sau 14 năm hoạt động, nhân lực mới chỉ có năm người, trong đó bao gồm một giám đốc, một phó giám đốc, một kế toán và hai cán bộ khoa học. Thiếu đội ngũ thực hiện chuyển giao trong các lĩnh vực, chuyên môn chưa đồng đều, sản phẩm khoa học có lợi nhuận thấp và đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định, dẫn đến việc hình thành chuỗi giá trị sản phẩm gặp nhiều khó khăn.
Nhằm giải quyết những vướng mắc dẫn tới hoạt động thiếu hiệu quả của các đơn vị KH&CN công lập, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NÐ-CP ngày 5/9/2005 và thay thế bằng Nghị định số 54/2016/NÐ-CP ngày 14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập. Tính đến nay trên cả nước đã có 40 trong số 63 trung tâm nhận Quyết định của UBND tỉnh phê duyệt đề án chuyển đổi và 23 trung tâm đã chuyển đổi sang mô hình tự chủ của tổ chức KH&CN công lập. Nhưng ở mỗi địa phương, việc chuyển đổi các trung tâm sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm lại có sự khác nhau, dẫn đến việc thiếu thống nhất từ T.Ư đến địa phương. Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học tỉnh Hải Dương Nguyễn Cao Ðam cho biết, đơn vị đã hoạt động được gần 20 năm, nhưng chỉ cầm chừng. Ðến năm 2007 khi chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trung tâm đã tự đứng vững bằng chính hoạt động nghiên cứu và chuyển giao của mình.
Ðể tăng hiệu quả hoạt động các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN ở các địa phương, bên cạnh việc phải tự chủ, chủ động trong các hoạt động thì cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và các cơ quan liên quan; Bộ KH&CN có thể bố trí một phần kinh phí từ việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ cho trung tâm tiếp tục nhân rộng đề tài; các trung tâm tiếp tục được giao những đề tài KH&CN nhằm phục vụ công tác ứng dụng chuyển giao trên địa bàn tỉnh; ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách liên quan đến các tổ chức KH&CN công lập; sự quan tâm của cấp ủy chính quyền các cấp cũng như sự nỗ lực tự thân của mỗi nhà khoa học, nhờ đó các trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao tiến bộ KH&CN sẽ phát huy vai trò, vị trí của mình, có những đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển khoa học và công nghệ, kinh tế - xã hội ở các địa phương.

Tìm kiếm...

2

Dan hoi GD So tra loi
bkhcn
DCS-VN chinh-phu
tap chi KHCN Báo Khoa học & Phát triển
NASATI Varans

 

Logo DVC 123 

Thống kê truy cập

2702926
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả các ngày
81
296
1731
2693884
18263
46546
2702926

Your IP: 18.97.14.90
2025-04-24 01:02