- Chuyên mục: Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Lượt xem: 1036
- Viết bởi Nguyễn Thị Huyền
Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Chuyên mục: Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Lượt xem: 1033
- Viết bởi Nguyễn Thị Huyền
- Chuyên mục: Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Lượt xem: 1171
- Viết bởi Nguyễn Thị Huyền
Ngày 29/9/2024, tại Ninh Bình, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức Hội thảo khoa học “Khởi tạo và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hội nhập quốc tế tại Ninh Bình - Vấn đề và giải pháp”. Tham dự Hội thảo có ông Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình; Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh; lãnh đạo các cục, vụ, viện của một số bộ, ngành trung ương; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, các huyện, thành phố; các doanh nghiệp tiêu biểu trên địa bàn tỉnh.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình cho biết, thời gian qua, tỉnh Ninh Bình đã và đang triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST. Bước đầu, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST của tỉnh cơ bản đã được hình thành và có bước phát triển. Nhiều doanh nghiệp mới đã được thành lập, nhiều dự án khởi nghiệp có nội dung ĐMST, có ứng dụng KH&CN, khai thác tài sản trí tuệ, các mô hình kinh doanh mới đã được hình thành và phát triển, nhiều tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp đã được hình thành để đẩy mạnh hoạt động khởi nghiệp ĐMST trong cộng đồng khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh đánh giá cao những nỗ lực của tỉnh Ninh Bình trong hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (KNST) và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong thời gian qua; đồng thời bày tỏ tin tưởng hệ sinh thái KNST của Ninh Bình sẽ tiếp tục phát triển, trở thành trung tâm kết nối doanh nghiệp KNST với các đối tác quốc tế, giúp Ninh Bình khai thác tối đa lợi thế du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản. Thứ trưởng đề nghị tỉnh Ninh Bình và các địa phương đồng hành, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về ĐMST và KNST, góp phần tạo ra một hệ sinh thái KNST sôi động và bền vững, để KHCN&ĐMST thực sự là động lực, đột phá chiến lược để đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hội thảo đã nhận được nhiều tham luận của các nhà kho học, nhà quản lý, nhà kinh tế. Trong đó nhấn mạnh: với bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, việc xây dựng một hệ sinh thái “Khởi nghiệp- Đổi mới sáng tạo hội nhập Quốc tế” là vô cùng cần thiết và cấp bách. Điều này không chỉ giúp tận dụng được những cơ hội mới mà còn tạo ra nền tảng vững chắc để đối mặt với những thách thức trong tương lai.
- Chuyên mục: Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Lượt xem: 1184
- Viết bởi Nguyễn Thị Huyền
Gừng được sử dụng phổ biến làm gia vị trong ẩm thực và là dược liệu chữa bệnh như trị đau dạ dày, nôn ói, viêm đường hô hấp và đau nhức xương khớp. Ngoài ra, gừng được sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm giúp kích thích mọc tóc, chống lão hóa, làm dịu vết bỏng, loại bỏ mụn và vết thâm, làm sáng da, tẩy tế bào chết và giảm mỡ thừa.
Hiện nay, gừng chủ yếu được tiêu thụ và phân phối ở dạng tươi, nên dễ hỏng. Gừng cần được chế biến sau thu hoạch nhiều hơn và đa dạng hóa các sản phẩm thì mới có thể từng bước ổn định được đầu ra. Để đa dạng hóa các sản phẩm, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Nông nghiệp Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh đã hoàn thiện công nghệ nano hóa hỗn hợp tinh gừng và một số dược liệu được chiết xuất bằng công nghệ CO2 lỏng siêu tới hạn làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm bảo vệ sức khỏe.
Trong nghiên cứu, các tác giả đã tìm kiếm khu vực gừng có chất lượng tốt và xác định ba địa phương có gừng đạt chất lượng cao gồm Đắk Nông, Đồng Nai và Lâm Đồng. Sau đó, nhóm nghiên cứu quy trình chiết xuất gừng khô bằng công nghệ CO2 lỏng siêu tới hạn và quy trình nano nhũ hóa hỗn hợp các loại tinh dầu để sản xuất ra ba sản phẩm đầu tiên: tinh dầu xịt miệng Sagucha, trà hòa tan uống liền gừng sả chanh Sagucha, tinh dầu xông hơi Sagucha.
Trong đó, sản phẩm trà gừng hòa tan uống liền được sản xuất dưới dạng bột mịn, có kết dính nhẹ, không bổ sung các chất ổn định bột hoặc chất chống vón cục như magnesium stearate. Trà hòa tan với thành phần từ gừng, sả, chanh, quế, bạc hà, đường phèn, có tác dụng giúp dễ tiêu hóa, ấm bụng, đóng gói theo quy cách lọ 25 gram, lọ 70 gram và lọ 140 gram.
Sản phẩm xịt miệng nano thảo dược Sagucha với thành phần gồm tinh dầu gừng, sả, chanh, quế, xá xị, bạc hà, cam thảo, sài đất, lá dứa và ethanol, giúp vệ sinh miệng, thơm miệng; được thiết kế dạng chai xịt với các dung tích chai 5 ml, 15 ml và 30 ml.
Sản phẩm tinh dầu xông hơi (thành phần từ gừng, sả, chanh, tràm, quế,…) có công dụng thay thế lá xông truyền thống, có thể dùng để xông hơi giải stress, giải cảm, cúm, giảm cân.
Ngoài ra, nhóm còn chế tạo thành công hệ thống thiết bị nhũ hóa siêu âm dòng liên tục, gồm các bộ phận như cung cấp nguyên liệu, nhũ cơ học, nano nhũ siêu âm và theo dõi, thu hồi sản phẩm. Thiết bị có thể sản xuất công nghiệp liên tục 24/24.
Bà Trần Thị Ngọc Diễm, Chủ nhiệm đề tài, cho biết, trong lĩnh vực chiết xuất thảo dược, công nghệ chiết CO2 siêu tới hạn được xem là phương pháp tiên tiến và hiệu quả, có tính an toàn và không gây ô nhiễm môi trường. Một trong những điểm mạnh của phương pháp này là khả năng giữ nguyên hương vị tự nhiên và chất lượng của sản phẩm chiết xuất. Trong khi đó, sự tạo thành hệ nhũ tương nano dầu trong nước giúp bảo quản các hoạt chất của tinh dầu dễ bay hơi và oxy hoá.
- Chuyên mục: Sở khoa học và Công nghệ Hòa Bình
- Lượt xem: 1190
- Viết bởi Nguyễn Thị Huyền
Mác mật là cây bản địa phân bố tại nhiều huyện của tỉnh Lạng Sơn: Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng, Cao Lộc, Tràng Định và Văn Lãng. Lá và quả mác mật là hương vị chính tạo nên các món ẩm thực nổi tiếng của Lạng Sơn. Sản phẩm mác mật của tỉnh Lạng Sơn đã có danh tiếng từ lâu đời, là đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả trong nước. Ngoài ra, mác mật cũng là một phần không thể thiếu trong món vịt quay lá mác mật của tỉnh Lạng Sơn, được vinh danh là một trong 100 món ăn đặc sản của Việt Nam.
Mới đây, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ đã ban hành Quyết định về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Lạng Sơn” cho sản phẩm mác mật. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này. Khu vực địa lý sản xuất sản phẩm mác mật Lạng Sơn gồm các khu vực sau đây thuộc tỉnh Lạng Sơn: Toàn bộ các xã, thị trấn trên địa bàn các huyện: Bắc Sơn, Bình Gia, Cao Lộc, Văn Lãng và Văn Quan; Các xã thuộc huyện Tràng Định: Quốc Khánh, Đội Cấn, Chí Minh, Tri Phương, Tân Yên, Tân Tiến, Kim Đồng, Đề Thám, Hùng Sơn, Hùng Việt và Quốc Việt; Các xã, thị trấn thuộc huyện Chi Lăng: Vạn Linh, Y Tịch, Bằng Mạc, Bằng Hữu, Gia Lộc, Mai Sao, Thượng Cường, Hòa Bình, Chi Lăng, thị trấn Đồng Mỏ và thị trấn Chi Lăng.
Mác mật Lạng Sơn có được danh tiếng như vậy là nhờ có mùi thơm đậm và vị cay nhẹ, được thể hiện qua hàm lượng myristicin trong tinh dầu cao. Hàm lượng myristicin trong tinh dầu của quả mác mật Lạng Sơn tươi là 27,68 - 37,95%, trong quả mác mật khô là 27,64 - 33,01%, trong lá mác mật tươi là 10,88 - 16,76%, và trong lá mác mật khô là 29,63 - 35,27%. Ngoài ra, quả mác mật tươi và lá mác mật tươi mang chỉ dẫn địa lý “Lạng Sơn” còn có hàm lượng protein lần lượt là 3,56 - 4,31% và 3,52 - 6,37%.
Các tính chất, chất lượng đặc thù của mác mật Lạng Sơn có được là nhờ những điều kiện đặc thù tại vùng đất nơi đây. Lượng mưa trung bình ở khu vực địa lý sản xuất mác mật Lạng Sơn trong tháng 1 và tháng 2 khá cao so với cùng thời điểm tại các khu vực trồng mác mật khác, lần lượt ở mức 36,55 mm và 34,17 mm, điều này hỗ trợ quá trình nảy mầm của chồi, cành non, lá non và nụ hoa.
Trong các tháng từ 5 đến 8, lượng mưa trung bình tại khu vực địa lý lại thấp hơn các khu vực trồng mác mật khác, ở mức từ 156,81 mm đến 232,45 mm, do có lượng mưa thấp hơn nên quá trình tổng hợp các chất trong tinh dầu quả và lá mác mật Lạng Sợn diễn ra thuận lợi hơn. Đây là giai đoạn quả mác mật chín, được thu hoạch với mức tích lũy dinh dưỡng cao nhất.
Ngoài ra, độ cao địa hình tỉnh Lạng Sơn ở mức dưới 600m, trung bình 252m so với mặt nước biển, thấp hơn so với độ cao của các khu vực sản xuất mác mật khác. Độ cao địa hình thấp giúp cho sự tổng hợp các thành phần tinh dầu (bao gồm myristicin) trong quả và lá mác mật tại Lạng Sơn cao hơn so với các địa phương khác.
Đất trồng mác mật tại Lạng Sơn cũng có hàm lượng K2O và độ pH phù hợp với việc sản xuất mác mật. Trong đó, hàm lượng K2O tổng số trong mẫu đất thu được tại khu vực địa lý khá cao, dao động từ 0,327% đến 0,883%, trung bình là 0,597%, là yếu tố hỗ trợ quá trình tổng hợp protein trong quả và lá mác mật của Lạng Sơn. Các mẫu đất trồng mác mật tại Lạng Sơn có độ pH từ 4,42 đến 8,24, trung bình là 6,864, ở mức cao do đất được hình thành trên nền đá vôi. Độ pH đất của Lạng Sơn thích hợp với cây mác mật hơn dẫn đến quá trình tổng hợp protein, myristicin trong quả và lá mác mật Lạng Sơn tốt hơn.